MEKONG - PHÙ SA PHIÊU BẠT - KỲ 2: NGƯỜI HẠ NGUỒN – PHANBOOK.VN

MEKONG - PHÙ SA PHIÊU BẠT - KỲ 2: NGƯỜI HẠ NGUỒN

Tôi thường được hỏi vì sao lại dành nhiều thời gian đến vậy để về miền Tây. Nơi đó có cảnh hùng vĩ, hay biển đẹp như miền Trung hay miền Bắc đâu. Nhưng tôi đi miền Tây nhiều và thường đi bằng xe máy, chỉ vì trót si mê một thứ kỳ quan ngoài cảnh đẹp, núi cao, biển xanh: Con người.

Vài năm trước, ở An Giang, một người đàn ông tên Lý mời tôi đến cửa hàng gạo của vợ chồng anh nằm giữa một khu chợ nhỏ. Chị vợ bước từ trên lầu xuống. Cái cầu thang phô bày sự sung túc khó gặp ở miệt này. Anh Lý pha hai cốc trà đường, đưa cho vợ anh và tôi. Chiều đó, anh dắt tôi đi vào tận miệt sâu, gặp từng gia đình anh quen biết.

Một đứa con gái xe tan quần áo của mình, bị mẹ xích trong căn phòng chái sau nhà. Nhà sàn chênh vênh trên quãng lìa ra khỏi mặt ruộng. Cô gái chừng tuổi tôi. Ngực tự cào xé đổ máu. Tóc tai xõa xượi. Mẹ cô nhìn tôi đầy ái ngại, tay bà cũng đầy vết cào của con. Cô bị tâm thần từ nhỏ, cào xé bản thân và mẹ mỗi khi mẹ muốn tắm hay thay quần áo cho. Anh Lý đi vào phòng nhìn cô gái và đưa cho bà mẹ toa thuốc từ bệnh viện: “Tháng này bác sĩ đồng ý phát thuốc về, chứ tháng sau chị phải cho cổ lên tái khám nghe không”. Cô gái tiến lại gần cửa sổ săm soi anh. Anh không tỏ vẻ gì sợ hãi mà còn nắm tay cô nói: “Cô ngoan không làm má đau nghe không! Tháng sau chú đưa cô đi xe đò chơi”. Anh Lý rời khỏi phòng, đưa bà mẹ 500 ngàn và cùng tôi ra về.

Bệnh nhân tâm thần ở đây thường sinh trưởng trong những gia đình rất nghèo. Không đủ ăn đủ mặc. Không tiền chữa bệnh. Nhiều người không đủ điều kiện cho con vào nhập trại trong Bệnh viện Tâm thần Trung ương 3 ở Tiền Giang. Đã có vài vụ người tâm thần dùng chày đập đầu cha mẹ, hoặc bỏ đi lang thang rồi bị người ngoài đánh đập.

Gia đình thứ hai anh Lý đưa tôi đến chỉ là cái chòi nhỏ, vách phên lá dừa mỏng le và hai mái nhà bằng lá dừa nước dựng trên nền đất. Giữa nền nhà, tất cả chén bát bị đập bể, quần áo bị xé thành từng mảnh. Người đàn ông đen sạm, gầy rộc đang ngủ trên võng, giữa đống lộn xộn đó. Anh Lý mở cửa vào nhà, sờ trán người đàn ông và chạy vào sau nhà thấm ướt chiếc khăn mặt. Anh lau khắp mặt con người khổ sở đó. Gương mặt tỉnh dần. Thân thể trầy trụa, đen đúa và dơ bẩn chỉ độc chiếc quần đùi. Anh lau kỹ gương mặt và trán, lấy mảnh chăn vứt trong xó nhà đắp lên người. Rồi ra ngoài, cột dây kẽm cánh cửa lại và gọi cho cha của người bệnh. Mỗi lần lên cơn, anh ta sẽ đập hết đồ đạc trong nhà. Người cha già yếu không thể chống cự thường khóa cửa và lánh đi nơi khác. Khi dứt cơn, anh lại sốt, lành khô và tĩnh lặng. Anh Lý gọi người cha về, mua cho đứa con trai tô cháo rồi đưa tôi về nhà.

Gia đình người bệnh tâm thần cần rất nhiều sự giúp đỡ. Sức mạnh để đưa bệnh nhân đi khám, để giằng giữ khi họ lên cơn. Tiền để lấy thuốc. Anh Lý và vợ tình nguyện làm những việc đó giúp bà con xung quanh. Vợ anh lo việc làm, ăn uống cho người bệnh. Anh đưa họ đi viện, trả tiền , lấy thuốc, hoặc đón họ về thăm nhà. Gần mười năm. Việc đi qua như cánh gió. Họ vẫn buôn gạo ở phố, nuôi hai đứa con trai mới vào tiểu học. Anh Lý thương nhất vợ anh. Chị hiểu anh đến từng chút mong ngóng, lo lắng cho những gia đình họ nhận giúp. Anh bị đánh khi đưa họ đi viện. Anh bị cào rách tay khi đưa cô gái lên xe cấp cứu. Anh dịu dàng dăm điều ba chuyện để cụ già chịu đi khám.

Có bận, tôi hỏi anh Lý làm vậy để làm gì. Anh nói thấy họ vậy thì anh nghĩ mình phải lo vì nha mình còn kiếm ra tiền, còn đủ sống, dư dả. Nguyên do có vậy thôi.



Người ở Cửu Long, đôi khi làm một việc gì đó chỉ đơn giản là vì động cơ ngoài bản thân họ. Và những câu hỏi về nguyên do trở thành một sự hồ nghi kỳ quái, khiến họ cũng chẳng biết làm sao giải đáp cho thỏa lòng. Họ cũng giống như những con rạch ở xứ này: chậm rãi, rời rạc nhưng luôn biết sự hiện diện của mình cần phải có ý nghĩa với một ai đó và những quan tâm chẳng liên quan gì đến sự no đủ hàng ngày. Dùng ý niệm nào gắn cho hành động của họ cũng không phù hợp. Giải thích nhiều chỉ làm phiền đến tâm tính vậy.

Có hồi tôi gặp hai đứa bạn nhỏ hơn mình. Tụi nó đi chơi, chụp hình chợ nổi, đi riết thì quen hết các gia đình ở chợ nổi và chơi với đám trẻ con ở Cái Răng. Rồi hai đứa làm phim. Một phim ngắn tẹo chỉ dài mười mấy phút. Diễn viên trong phim chính là những người thương hồ đó. Một người chồng lành, nhưng cứ rượu vào là đánh vợ. Một người vợ khi chịu đòn thì uất ức, khi hết giận lại thương xót mà chăm sóc cả mái nhà. Và hai đứa bé con, luôn sợ hãi những trận đòn, nhưng không đành lòng để cha ngủ ngoài trời khi say xỉn, sợ cha trúng gió. Hai đứa bạn kể niềm vui của chúng là khiến anh chồng tự dưng thấy vợ thương mình, thấy con xót mình, mấy đứa con len lén ngồi khóc ngoài sàng nước khi rửa rau. Thành công nào từ bộ phim cũng không quan trọng bằng chuyện dần dần thấy anh bớt nhậu. Tụi nó sợ chợ nổi mất đi hồn vía, sợ người ta bê tha, sợ trẻ con ngồi khóc mà không ai thương… sợ đủ thứ. Vì vậy suốt cả năm trời tụi nó tới chợ nổi Cái Răng, ghi chép, chụp ảnh, quay phim, chỉ để hiểu con sông này phải níu lại vài sợi nước ngọt lành, chứ không bung hết hy vọng cuối cùng ra đồng mặn chát. Cũng chẳng có thứ lý lẽ nào thích hợp cho được với những nhọc công và lo nghĩ kiểu thanh niên đó.

Người Cửu Long sợ đồng mặn bởi lòng họ quen với thứ nước ngọt vục tay xuống là hớp lên miệng bất kể trưa hè chói chang. Nước mặn vào là lúa bạc đầu, xám ngoét rồi gục chết. Mặn vào là gốc sầu riêng, xoài xanh đều tái mét mặt mày, rồi lẳng lặng gục chết, để lại những vườn cây hoang tàn. Sống cả trăm năm cạnh nước Cửu Long nhu lành như bờ bãi phù sa, người xứ này sợ làm đau người cạnh mình, sợ thấy xung quanh khốn lòng đói khổ, sợ cái thương không bù được cho điều dại khi những bi kịch hiện hình ở buổi giao thời có trở thành hiện đại.

Vài năm trước hạn hán, tôi gặp người Bến Tre ở Ba Tri, thúc thủ và bất lực, chẳng cách gì hiểu nổi đồng nước vì sao tàn bạo quá đỗi trong một mùa hạn chưa từng có. Đâu đó ở Kiên Giang, Bạc Liêu, kè biển vỡ tan sau vài lớp sóng, làm đau cả người lạ đứng nhìn. Nước biển lẫn vào phù sa. Cửa biển hòa với cửa sông. Con người đành cam chịu khi sự sống bị dòng sông chối từ, nêm nó cho mặn đắng, trắng phớ màu muối.

Rồi tới những cù lao bé xíu xiu giữa An Giang, Đồng Tháp, giữa sông Hậu mênh mông, vài cù lao chỉ còn là ảo ảnh trên bản đồ, trong những câu chuyện kể. Người ở cồn Châu Ma kể về nửa cái cồn rụng gãy giữa sông như trong cổ tích kỳ ảo, hiện ra rồi biến mất. Không lấp đầy được. Nước sông Hậu vùi sạch. Nhưng hỏi thì ai cũng nhớ vanh vách cồn Châu Ma là nơi ba má sinh ra, thương nhau rồi tượng hình con trẻ. Cồn là đường đi học đầu tiên, là bờ lúa soi thẳng ra mặt sông, là thịt đất phù sa ăm ắp, thơm tho mùa gặt đến. Lở sạch bong. Chỉ ký ức bám rễ lại trong lòng người là không trôi theo nước. Kể hoài. Đến mức trẻ con có đứa vài tuổi cũng nhớ giữa sông Hậu, quãng ngã ba này, xưa là cồn Châu Ma.

Người chèo đò lắc đầu không lấy tiền của mấy đứa trẻ cù lao lên bờ đi học. Nhà tụi nó được tái định cư khi cồn dông thẳng xuống nước. Người thương lái bán hàng ở chợ hung hãn om sòm, mỗi ngày đều để ra dư dật những bông bắp cải, bó mồng tơi, thảy vào giỏ người đàn bà đang nuôi bốn năm đứa bé mồ côi bà đưa về. Làm thương buôn không quá lòng nuôi được ai, bà góp bữa ăn đó cho những kẻ đói hơn mình. Người thầy giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, đi tứ xứ rồi quay về xã, làm một cái xe cấp cứu giúp đỡ bà con trong lúc ngặt nghèo. Bao nhiêu cái cù lao đã mải mốt lở hết từng dốc đất, chuyện còn nhớ được là hôm tai họa tới, cả xóm này ai mất nhà đều được người xóm trong cho qua ở nhờ, đợi lo xong chuyện buồn rồi lợp lại mái lá làm chỗ ra vào - khi đã mất tất cả đất tổ tiên mấy đời để lại. Miếng đất to như giọt máu. Người mất đất vì lở cù lao như gặp cơn ác bệnh, nhiều khi đứng đó khóc ròng ròng không kìm được cơn nghẹn.


Những kẻ đi phượt, vì cái phẳng băng của đồng bằng, thường không cố gắng hiểu Cửu Long như người bạn hữu. Nó nhàm chán, thẳng đuột, vô vị, hay nhạt phèo, chẳng lấp vừa một bức ảnh selfie. Nó cũng không bao la, hùng vĩ. Cửu Long là hạ nguồn của Mekong, cái đuôi của con sông dài thứ bảy thế giới. Vùng đất này kỳ diệu bởi tim người. Họ khác nhau trên từng sinh cảnh. Họ lại giống nhau bởi những thân ái không thể ngờ. Họ thẳng đuột, thành thật trong từng cách lý giải xung quanh, lý giải tình thương hay một bi kịch sống còn. Họ không gán lên tim ai một hồ nghi ngọt nhạt và chẳng cố tô vẽ thêm cho lộn xộn tâm tình.

Họ lặn sâu xuống dòng sông Hậu mát lành, cười như lúa sớm, vất vả giữa ngày nước không lên, cá chẳng về. Họ thương là thương thật. Ghét là ghét thật. Họ đưa tay để không ai ngã xuống đường cùng. Hay đó là cách hiểu khi người phải luôn ngấp nghé sống cạnh bờ nước chảy muôn đời?

Có một bận tôi về làng hoa ở Sa Đéc, vợ anh chủ nhà chuẩn bị nệm giường cho khách trắng phau rồi quày quả bày bán hàng dãy chậu hoa sắp mở nụ ra trước thềm nắng. Chị nói, hoa để vầy sớm ngủ dậy mình thấy vui hơn.

Từ dạo đó, tôi xúc động thật nhiều mỗi lần về Cửu Long, về nơi người ta thương lo cho khách lạ mà chẳng toan tính gì nhiều. Tôi chẳng bao giờ tìm cách hỏi vì sao họ làm vậy nữa.


(Trích từ cuốn sách Mekong - Phù sa phiêu bạt của Khải Đơn)

BÌNH LUẬN

Tin cùng chuyên mục